Trong 2 ngày 14 và 15 tháng 12 năm 1967, Thị uỷ triệu tập hội nghị cán bộ chủ chốt để bàn biện pháp thực hiện quyết tâm chiến lược của Trung ương Đảng. Hội nghị tập trung phân tích tình hình tương quan lực lượng giữa ta và địch có quá nhiều chênh lệch: Địch có số quân đông hàng tiểu đoàn, đầy đủ các binh chủng và các sắc lính của quân Mỹ, quân Nam Triều Tiên và quân ngụy; được trang bị vũ khí, phương tiện chiến đấu, hậu cần đầy đủ và hiện đại; hệ thống bố phòng kiên cố, vững chắc, liên hoàn ở cả trung tâm thành phố và các vùng trọng điểm ở ngọai ô; điều kiện tác chiến cơ động và yểm trợ thuận tiện... Trong khi đó, quân ta thua kém hơn nhiều cả về quân số, trang bị, hậu cần; phải di chuyển đội hình từ vùng đông các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình vượt qua nhiều sông lạch trống trải; cần phải có nơi rấm quân, trú quân cho các tiểu đoàn bộ đội và sở chỉ huy chiến dịch ngay trong vùng sát nách địch để đảm bảo vận hành tác chiến; phải chủ động tấn công đánh vào các vị trí xung yếu của địch được phòng thủ tối đa; thời gian chuẩn bị cho chiến dịch ngắn... Tuy nhiên, ta hơn hẳn địch về tinh thần chiến đấu và quyết tâm chiến thắng; các trận tập kích đánh mạnh vào trung tâm thị xã và các vị trí quan trọng của địch trước đó thu thắng lợi lớn đã cỗ vũ mạnh mẽ khí thế tiến công và nổi dậy của toàn quân và toàn dân; lực lượng chính trị quần chúng được xây dựng và phát triển vững mạnh là chỗ dựa quan trọng của chiến dịch...
Trên tất cả là tinh thần cách mạng tiến công, triệt để chấp hành chủ trương, mệnh lệnh của cấp trên, Thị ủy xác định: “Nhiệm vụ chung sắp đến của thị xã chúng ta là động viên toàn đảng, toàn dân, toàn quân nỗ lực phi thường, phát huy cao độ năng lực chủ quan của mình, gây nên một chuyển biến tư tưởng mạnh mẽ vượt bậc, đi đôi với việc tăng cường công tác tổ chức, ra sức xây dựng lực lượng, phát huy bạo lực cách mạng của quần chúng, đẩy mạnh ba mũi giáp công liên tục tấn công địch, xáp vào mở ra vùng yếu, phá hỏng kèm nội ô tạo điều kiện gấp rút tiến lên phối hợp cùng toàn miền thực hiện phương hướng chiến lược của Đảng” .
Để thực hiện nhiệm vụ trên, hội nghị quyết định “Tổng động viên chính trị” trong toàn Đảng bộ, lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân thị xã với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả cho chiến thắng! Tất cả để giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân!”. Cán bộ chỉ huy quân sự của tỉnh cùng Ban Thường vụ Thị ủy, Ban chỉ huy Thị đội và tất cả các cơ quan, ban ngành, xã phường, đoàn thể gấp rút bắt tay chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích – tổng khởi nghĩa, chuẩn bị chiến trường, chuẩn bị lực lượng, xây dựng phương án tác chiến và phương án phát động quần chúng nổi dậy, đảm bảo hậu cần tiếp tê và hậu cần thông tin liên lạc; chuẩn bị cơ sở giấu ém lực lượng và bàn đạp xuất phát tấn công.
Ban chỉ huy Tổng công kích - tổng khởi nghĩa của thị xã do đồng chí Ngô Xuân Hạ bí thư Thị ủy làm chính ủy, đồng chí Nguyễn Hoán tham mưu phó Mặt trận 4 làm tư lệnh. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Thị ủy và lãnh đạo các ban, ngành được phân công về các cánh và nội ô trực tiếp chỉ đạo công tác chuẩn bị mọi mặt cho Tổng công kích - tổng khởi nghĩa. Ban chỉ huy Thị đội phân công đồng chí Trần Hồng Thái- Thị đội trưởng phụ trách cánh Bắc nội ô, đồng chí Trần Văn Bừa- Thị đội phó phụ trách cánh Nam nội ô.
Lực lượng vũ trang thị xã được tăng cường về quân số và trang bị. Ban chỉ huy Thị đội thành lập 3 tổ biệt động lót sâu vào các vùng Sơn Phòng, Mình Hương, Cẩm Phô hoạt động xây dựng tự vệ mật trong các đường phố, điều tra nắm tình hình địch. Du kích mật ở vùng yếu phát triển được 26 tổ phân bổ đều khắp ở các vùng Xóm Mới, Sơn Phô, Trường Lệ, Tử Lễ, Hậu Xá, Thanh An, Phước Trạch, Gành, Cẩm Nam và Cẩm Kim. Du kích các xã được bổ sung và củng cố: xã Cẩm Thành xây dựng được 2 trung đội, xã Cẩm Hà 1 trung đội, Cẩm Châu và Cẩm Nam mỗi xã 2 tiểu đội, Cẩm An và Cẩm Kim mỗi xã 1 tiểu đội. Các thôn An Bàng, Xóm Chiêu, thôn 4 xã Cẩm Nam, Trà Quế, Cửa Suối, Bàu Ốc đều xây dựng 1 tiểu đội du kích thôn.
Ban Thường vụ Thị ủy chủ trương dựa trên cơ sở thực lực và khả năng để thành lập một đại đội đặc công. Ngày 15 tháng 12 năm 1967, Ban chỉ huy Thị đội thành lập đại đội đặc công, mang phiên hiệu C2, gồm 35 chiến sĩ, chủ yếu rút các chiến sĩ từ trung đội 2 của đại đội bộ đội địa phương thị xã để xây dựng khung, còn lại điều động lực lượng nòng cốt du kích của các xã bổ sung. Ban chỉ huy đại đội gồm có đồng chí Đinh Văn Minh làm đại đội trưởng, đồng chí Phan Ngọc Đương làm đại đội phó, đồng chí Huỳnh Phước Cư làm chính trị viên và bí thư chi bộ đảng đại đội, đồng chí Nguyễn Nhỏ làm chính trị viên phó. Trong đơn vị có chi bộ đảng gồm 8 đảng viên, chi đoàn thanh niên có 17 đoàn viên và 10 quần chúng. Đại đội phân thành 3 trung đội, trang bị của đại đội gồm có 3 khẩu B40, 1 trung liên Mỹ, còn lại là súng AK cá nhân. Đại đội bộ binh của thị xã được tăng cường, kiên toàn lấy phiên hiệu là C1, do đồng chí Văn Thanh Tùng làm đại đội trưởng, đồng chí Mai Văn Liền làm chính trị viên.
Đầu tháng 1 năm 1968, phương án Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân ở thành phố Đà Nẵng, thị xã Hội An và các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc được phê chuẩn và phê duyệt. Thường vụ Khu ủy V và Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà quyết định tập trung lớn nỗ lực cho trọng điểm Đà Nẵng . Các đồng chí Võ Văn Đặng phái viên Khu ủy khu V, Hoàng Văn Lai ủy viên Ban Thường vụ Đặc khu ủy Quảng Đà và một số cán bộ chính trị của tỉnh, các huyện Duy Xuyên, Điện Bàn, Thăng Bình được cấp trên điều động tăng cường tham gia chuẩn bị, chỉ đạo tổng tiến công và nổi dậy trên chiến trường Hội An. Theo chỉ thị của Đặc khu ủy Quảng Đà, các xã phía đông dưới đường quốc lộ 1 có nhiệm vụ tham gia trực tiếp cuộc tổng tấn công và nổi dậy tại thị xã Hội An, gồm có các xã Bình Giang, Bình Triều, Bình Đào, Bình Dương (huyện Thăng Bình); Xuyên Phước, Xuyên Thọ, Xuyên Nghĩa, Xuyên Long, Xuyên Tân, Xuyên An (huyện Duy Xuyên); Điện Thành, Điện Nam, Điện Phương, Điện Ngọc, Điện Dương, Điện Hải (huyện Điện Bàn).
Cùng với sự trưởng thành của lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị của quần chúng chuẩn bị cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa được huy động tối đa. Bộ máy lãnh đạo đấu tranh chính trị được kiện toàn, gồm cả bộ máy chỉ huy do cán bộ hợp pháp đảm trách và bộ máy chỉ huy gồm cán bộ thoát ly hoạt động bí mật; từ chỉ huy chung toàn thị xã đến chỉ huy từng vùng, chỉ huy liên lạc, binh vận, trinh sát, xung kích, nòng cốt. Lực lượng chính trị quần chúng ở các vùng nông thôn giải phóng biên chế thành các tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu đoàn, từng cánh, từng mũi, do các cán bộ có kinh nghiệm lãnh đạo và chỉ huy. Ở các nơi công cộng trong nội ô như bến xe, bến đò, chợ, nhà thương, trường học đều thành lập các tổ huy động quần chúng.
Đến ngày 10 tháng 01 năm 1968, đợt “Tổng động viên chính trị” trong toàn dân cơ bản hoàn thành, ta thực hiện “nắm dân như nắm quân”, tổ chức 3 lần tập dượt đấu tranh nhập thị với quy mô lớn, huy động toàn lực lượng để rút kinh nghiệm và khích lệ tinh thần quần chúng. Công tác đảm bảo hậu cần cho chiến dịch cũng được giải quyết khẩn trương và chu đáo. Cơ sở của ta bằng các đường hợp pháp hoặc bí mật mua đường, sữa, gạo, xăng dầu và nhiều nhu yếu phẩm khác với hàng chục tấn từ vùng địch lần lượt chuyển ra chôn giấu dự trữ ở An Bàng, Trà Quế, Cẩm Thanh, Xuyên Thọ để sẵn sàng tiếp tế cho bộ đội. Hàng trăm hầm bí mật, công sự và hàng trăm ghe thuyền cùng với lực lượng dân công hùng hậu được khẩn trương chuẩn bị sẵn sàng phục vụ chiến trường.
(Còn nữa, mời xem tiếp kỳ 2: Tương quan lực lượng và phương án tác chiến)
Người biên soạn: Nguyễn Văn Lanh